Tổng quan Giáo_dục_Việt_Nam_Cộng_hòa

Sách giáo khoa do Ban Tu thư thuộc Bộ Quốc gia Giáo dục soạn ra

Từ năm 1917, chính quyền thuộc địa Pháp ở Việt Nam đã có một hệ thống giáo dục thống nhất cho cả ba miền Nam, Trung, Bắc, và cả Lào cùng Cao Miên. Hệ thống giáo dục thời Pháp thuộc có ba bậc: tiểu học, trung học, và đại học. Chương trình học là chương trình của Pháp, với một chút sửa đổi nhỏ áp dụng cho các cơ sở giáo dục ở Việt Nam, dùng tiếng Pháp làm ngôn ngữ chính, tiếng Việt chỉ là ngôn ngữ phụ. Sau khi Đế quốc Việt Nam thành lập vào ngày 17 tháng 4 năm 1945,[5] chương trình học của Việt Nam - còn gọi là chương trình Hoàng Xuân Hãn ban hành trong khoảng thời gian từ 20 tháng 4 đến 20 tháng 6 năm 1945 dưới thời chính phủ Trần Trọng Kim của Đế quốc Việt Nam - được đem ra áp dụng ở miền Trung và miền Bắc, nhưng chỉ 2 tháng sau thì Đế quốc Việt Nam sụp đổ. Vì sự trở lại của người Pháp nên chương trình Pháp vẫn còn tiếp tục cho đến giữa thập niên 1950. Đến thời Đệ Nhất Cộng hòa thì chương trình Việt mới được áp dụng ở miền Nam để thay thế cho chương trình cũ của Pháp. Cũng từ đây, các nhà lãnh đạo giáo dục người Việt Nam mới có cơ hội đóng vai trò lãnh đạo.[6]

Ngay từ những ngày đầu hình thành nền Đệ Nhất Cộng hòa, những người làm công tác giáo dục ở miền Nam đã bắt đầu xây dựng các nền móng đầu tiên cho nền giáo dục. Những vấn đề đó là: triết lý giáo dục, mục tiêu giáo dục, chương trình học, tài liệu giáo khoa và phương tiện học tập, vai trò của nhà giáo, cơ sở vật chất và trang thiết bị trường học, đánh giá kết quả học tập, và tổ chức quản trị.[7] Nhìn chung, người ta thấy mô hình giáo dục ở miền Nam Việt Nam trong những năm 1970 có khuynh hướng xa dần ảnh hưởng của Pháp vốn chú trọng đào tạo một số ít phần tử ưu tú trong xã hội và có khuynh hướng thiên về lý thuyết, để chấp nhận mô hình giáo dục Hoa Kỳ có tính cách đại chúng và thực tiễn.

Tỷ lệ người đi học

Áp phích tường thuật lễ khánh thành một trường tiểu học ở tỉnh Kontum

Theo Nguyễn Thanh Liêm (cựu Thứ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục Việt Nam Cộng hòa), nền giáo dục VNCH chỉ tồn tại trong 20 năm (từ 1955 đến 1975), bị ảnh hưởng nặng nề bởi chiến tranh và những bất ổn chính trị thường xảy ra, phần thì ngân sách eo hẹp do phần lớn ngân sách quốc gia phải dành cho quốc phòng và nội vụ (trên 40% ngân sách quốc gia dành cho quốc phòng, khoảng 13% cho nội vụ, chỉ khoảng 7–7,5% cho giáo dục). Tuy nhiên, cơ sở trường lớp đã phát triển nhanh, đáp ứng được một phần nhu cầu gia tăng nhanh chóng của người dân, đào tạo được một nhóm trí thức có khả năng chuyên môn để xây dựng quốc gia và tạo được sự nghiệp ở các quốc gia phát triển. Kết quả này là nhờ các nhà giáo có ý thức rõ ràng về sứ mạng, trách nhiệm và dành nhiều tâm huyết đóng góp cho nghề nghiệp, cũng như nhiều bậc phụ huynh đã đóng góp tài chính cho việc xây dựng cơ sở vật chất, cùng những ý tưởng, sáng kiến, và nỗ lực mang lại sự tiến bộ cho nền giáo dục.[6] Tuy nhiên, giáo dục VNCH vẫn tồn tại nhiều khuyết điểm, tiêu biểu là mang lưới trường học bị thiếu hụt và mất cân đối, mức độ phổ cập giáo dục khá thấp, số trường trung học và đại học quá ít so với dân số, tỷ lệ trẻ em thất học cao, tỷ lệ người mù chữ vẫn còn khá lớn (xem số liệu ở dưới).

Năm học 1973–1974, Việt Nam Cộng hòa có 20% dân số là học sinh và sinh viên đang đi học trong các cơ sở giáo dục. Con số này bao gồm 3.101.560 học sinh tiểu học, 1.091.779 học sinh trung học, và 101.454 sinh viên đại học[2] Đến năm 1975, tổng số sinh viên trong các viện đại học ở miền Nam là khoảng 150.000 người (không tính các sinh viên theo học ở Học viện Quốc gia Hành chánh và ở các trường đại học cộng đồng), chiếm 0,75% dân số.[8]

Hệ thống giáo dục Việt Nam Cộng hòa thực hiện phổ cập tiểu học, mọi trẻ em đến 6 tuổi đều có quyền đăng ký đi học tại trường công. Tuy nhiên từ cấp 2 trở đi thì không được phổ cập. Học sinh tới lớp 5 (lớp cuối cùng của cấp tiểu học) sẽ phải trải qua một loạt các kỳ thi được đề ra với tỷ lệ đánh trượt cao ở mọi giai đoạn:

  • Học hết tiểu học phải trải qua kỳ thi vào trung học đệ Nhất cấp. Kỳ thi có tính chọn lọc khá cao, tỷ lệ đậu vào trường công khoảng 62%[9]. Số 38% bị trượt phải vào trường tư và tự trang trải học phí, không được miễn phí như trường công.
  • Đến cuối năm lớp 11, học sinh phải thi Tú tài I, cuối năm lớp 12 phải thi Tú tài II. Nói chung Tú tài I tỷ lệ đậu chỉ khoảng 15–30% và Tú tài II khoảng 30–45%.[10] Nam giới thi hỏng Tú tài I phải trình diện nhập ngũ quân đội[11] và đi quân dịch hai năm[12] hoặc vào trường hạ sĩ quan Đồng Đế ở Nha Trang.

Do số thí sinh bị đánh trượt cao, học sinh thời Việt Nam Cộng hòa phải chịu áp lực rất lớn về thi cử nên phải học tập rất vất vả[13], và chỉ khoảng 24% tổng số thiếu niên ở lứa tuổi từ 12 đến 18 là được đi học[14][15]. Nội san AĐS cho biết: “Cứ 100 em vào lớp đầu của bậc tiểu học thì chỉ có 3 em được học trung học đệ nhị cấp, còn 97 em bị hất ra ngoài nền giáo dục đại chúng của ông Thiệu, và trong tiểu học có 51% học sinh không được học lên lớp 4”[16] Tới năm 1974, tỷ lệ người dân biết đọc và viết của Việt Nam Cộng hòa ước tính vào khoảng 70% dân số[2], 30% còn lại vẫn mù chữ.

Sau năm 1975, Việt Nam Cộng hòa sụp đổ trong khi vẫn chưa giải quyết được tình trạng mù chữ, ít học trong một bộ phận không nhỏ người dân miền Nam. Trong Chỉ thị 221 CT/TW "Về công tác giáo dục ở miền Nam sau ngày hoàn toàn giải phóng", ngày 17-6-1975, Ban Bí thư Trung ương Đảng nhấn mạnh “Trước mắt, phải coi đây (nhiệm vụ xoá nạn mù chữ và bổ túc văn hoá) là một nhiệm vụ cấp thiết số một.... Trước hết, phải xoá ngay nạn mù chữ trong cán bộ và thanh niên và tiếp tục bổ túc văn hoá cho họ, đồng thời phát động phong trào sôi nổi trong quần chúng nhằm mau chóng xoá nạn mù chữ trong nhân dân lao động, phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ này trong hai năm”. Tháng 9-1976, trong thư gửi giáo viên và học sinh cả nước nhân dịp khai giảng năm học mới, Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng lưu ý “Riêng đối với miền Nam, cần tập trung sức nhanh chóng xoá xong nạn mù chữ và đẩy mạnh công tác bổ túc văn hoá cho cán bộ và thanh niên công nông...”. Phong trào bình dân học vụ nhằm giải quyết tình trạng người dân mù chữ trong chế độ cũ được thực hiện. Cuối tháng 2-1978, tất cả 21 tỉnh và thành phố ở miền Nam đã cơ bản hoàn thành kế hoạch xoá nạn mù chữ[3]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Giáo_dục_Việt_Nam_Cộng_hòa http://www.personal.usyd.edu.au/~cdao/booksv/tvrgd... http://www.personal.usyd.edu.au/~cdao/booksv/tvrgd... http://vuongtrinhan.blogspot.com/2014/12/may-cam-n... http://www.calitoday.com/news/view_article.html?ar... http://www.erct.com/2-ThoVan/0-ThanHuu/HoaGiang/LS... http://www.erct.com/2-ThoVan/3-Unna/Giao_duc_VN.ht... http://www.haivannews.com/default.asp?sourceid=&sm... http://www.hanvota.com/nhac/Frame_Nav/nav_GUITAR-n... http://www.hocviencsqg.com/QuaTrinhThanhLapHocVien... http://www.nationsencyclopedia.com/Asia-and-Oceani...